Khoa học giả là một khoa học giả mạo đưa ra các tuyên bố dựa trên bằng chứng khoa học bị lỗi hoặc không tồn tại. Trong hầu hết các trường hợp, những khoa học giả này đưa ra những tuyên bố theo cách khiến chúng có vẻ khả thi, nhưng ít hoặc không có sự hỗ trợ thực nghiệm cho những tuyên bố này.
Đồ thị, số học và chiêm tinh học, tất cả đều là những ví dụ về khoa học giả. Trong nhiều trường hợp, những nhà khoa học giả này dựa vào các giai thoại và lời chứng thực để chứng minh cho những tuyên bố thường kỳ quặc của họ.
Cách xác định Khoa học so với Khoa học giả
Nếu bạn đang cố gắng xác định xem thứ gì đó có phải là khoa học giả hay không, có một số điều chính bạn có thể tìm kiếm:
- Cân nhắc mục đích. Khoa học tập trung vào việc giúp con người phát triển sự hiểu biết sâu sắc hơn, phong phú hơn và đầy đủ hơn về thế giới. Pseudoscience thường tập trung vào việc thúc đẩy một số loại chương trình tư tưởng.
- Xem xét cách giải quyết những thách thức. Khoa học hoan nghênh những thách thức và nỗ lực bác bỏ hoặc bác bỏ những ý kiến khác nhau. Mặt khác, Pseudoscience có xu hướng chào đón bất kỳ thách thức nào đối với giáo điều của nó bằng thái độ thù địch.
- Nhìn vào nghiên cứu. Khoa học được hỗ trợ bởi một lượng kiến thức và nghiên cứu sâu và không ngừng phát triển. Các ý tưởng xung quanh chủ đề có thể đã thay đổi theo thời gian khi những điều mới được phát hiện và nghiên cứu mới được thực hiện. Pseudoscience có xu hướng khá tĩnh. Có thể ít thay đổi kể từ khi ý tưởng được giới thiệu lần đầu tiên và nghiên cứu mới có thể không tồn tại.
- Nó có thể được chứng minh là sai? Khả năng giả mạo là một dấu hiệu quan trọng của khoa học. Điều này có nghĩa là nếu điều gì đó là sai, các nhà nghiên cứu có thể chứng minh rằng điều đó là sai. Nhiều tuyên bố giả khoa học chỉ đơn giản là không thể kiểm chứng được, vì vậy các nhà nghiên cứu không có cách nào để chứng minh những tuyên bố này là sai.
Thí dụ
Phrenology là một ví dụ điển hình về cách một khoa học giả có thể thu hút sự chú ý của công chúng và trở nên phổ biến. Theo những ý tưởng đằng sau thuật ngữ học, những vết sưng trên đầu được cho là tiết lộ các khía cạnh về tính cách và đặc điểm của một cá nhân. Bác sĩ Franz Gall lần đầu tiên đưa ra ý tưởng này vào cuối những năm 1700 và cho rằng những vết sưng trên đầu của một người tương ứng với các đặc điểm vật lý của vỏ não.
Gall đã nghiên cứu hộp sọ của các cá nhân trong bệnh viện, nhà tù và trại tị nạn và phát triển một hệ thống chẩn đoán các đặc điểm khác nhau dựa trên các vết sưng trên hộp sọ của một người. Hệ thống của ông bao gồm 27 “khoa” mà ông tin rằng tương ứng trực tiếp với một số bộ phận của người đứng đầu.
Giống như các khoa học giả khác, các phương pháp nghiên cứu của Gall thiếu tính chặt chẽ về mặt khoa học. Không chỉ vậy, mọi mâu thuẫn với tuyên bố của anh ta đều bị bỏ qua. Những ý tưởng của Gall tồn tại lâu hơn anh ta và trở nên phổ biến rộng rãi trong suốt những năm 1800 và 1900, thường là một hình thức giải trí phổ biến. Thậm chí có những máy công nghệ phrenology sẽ được đặt trên đầu của một người. Sau đó, các đầu dò được nạp vào lò xo sẽ cung cấp phép đo các phần khác nhau của hộp sọ và tính toán các đặc điểm của cá nhân.
Mặc dù cuối cùng khoa học phrenology bị bác bỏ như một khoa học giả, nhưng nó đã có một ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của thần kinh học hiện đại. Ý tưởng của Gall cho rằng một số khả năng nhất định được liên kết với một số bộ phận của não bộ đã dẫn đến mối quan tâm ngày càng tăng đối với việc xác định vị trí của não bộ ý tưởng, hoặc quan niệm rằng một số chức năng nhất định được liên kết với các vùng cụ thể của não. Các nghiên cứu và quan sát sâu hơn đã giúp các nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn về cách thức tổ chức của não và các chức năng của các khu vực khác nhau của não.
Nguồn:
Hothersall, D. (1995). Lịch sử Tâm lý học. New York: McGraw-Hill, Inc.
Megendie, F. (1855). Một luận thuyết sơ cấp về sinh lý học con người. Harper và anh em.
Sabbatini, RME (2002). Phrenology: Lịch sử của bản địa hóa não.
Wixted, J. (2002). Phương pháp luận trong tâm lý học thực nghiệm. Thành tựu cao nhất.